Báo Nhật – Bài viết sẽ giúp khách hàng nhân thức thêm về tiếng Nhật nói tầm thường và tiếng Nhật giao du nói riêng – những vấn đề mà bạn chắc hẳn là chưa học, và khả năng rất cao là sẽ không học ở trường lớp của bạn.
Trước khi tôi có thể giúp bạn nhân thức rõ hơn về tiếng Nhật giao du, đầu tiên có lẽ cần phải làm cho rõ một yếu tố trước: Bạn đã nhân thức tiếng Nhật tới đâu rồi? Câu trả lời của người mua độc giả nhất quyết sẽ là mỗi người một kiểu. Vậy tôi sẽ hỏi theo một cách thức khác dế giải đáp hơn: Bạn nhân thức những câu sau trong tiếng Nhật không? おはようございます。 さようなら。 ありがとうございます。
Trước khi để bạn phải bật cười và nói lớn lên rằng: ô hay, hỏi vớ vẩn, những cái đó thì đương nhiên là biết rồi!… thì tôi rất xin lỗi đã khiến cho bạn nắm bắt lầm và xin phép được đính chính lại nghi vấn: Bạn biết – cam kết rồi – nhưng bạn đã biết hết về những câu đó chưa?
Việc phân tích các yếu tố ngữ pháp hẳn đã trở thành quá tiện lợi với bạn
Có một yếu tố hẳn bạn đã quên không chú ý đến khi học tiếng Nhật. Càng học đa dạng tiếng Nhật, bạn càng được học phổ biến trong khoảng mới, cấu trúc ngữ pháp, chuyển đổi thể thụ động bị tĩnh nọ kia. Bạn có thể phân tích một phương pháp nhuần nhuyễn câu phức trong văn bạn dạng với chủ ngữ được bổ nghĩa bằng một vế định ngữ, và động từ chính đặt cuối câu được chia theo thể sử dịch tiếp tục, cùng lúc liệt kê những động trong khoảng thường nào đã được thay thế bằng các động từ khiêm nhường nhịn và tôn kính tương ứng. Ví như chẳng phải là rất nhiều, thì ít nhất bạn cũng phân tách được những dạng ngữ pháp bạn đã học. Câu yếu tố kiện, câu sai làm, câu cấm đoán… đông đảo các loại câu mà bạn đã nhân thức.
TRỪ 3 CÂU Ở TRÊN.
Phải rồi, nếu như bạn đang nói tiếng Nhật, thì cam đoan bạn đang dùng những câu trên. Nhưng có phải đa số những gì bạn nhân thức về những câu đó là cách thức phát âm, ý nghĩa – hay đúng hơn là trường thích hợp có thể sử dụng – và hết? おはようございます, さようなら, ありがとうございます. ngừng thi côngĐây là một trong khoảng? Hay một vế câu? Danh từ hay động trong khoảng? Hay trợ từ? Chia ở thể nào, tại sao lại có masu? Có thể chia ở thể thường không? Có thể chia ở thể phủ định, yếu tố kiện, sử dịch không? Mà đó là 1 trong khoảng, hay là 2 trong khoảng? 3 trong khoảng? 4 từ? Những chữ nào thuộc 1 từ? Thật là khó đoán, khi mà những câu tiếng Nhật mà bạn biết, lại chẳng làm theo một nguyên tắc ngữ pháp hay chứa một trong khoảng tiếng Nhật hoàn chỉnh nào mà bạn

Thế nên có nhẽ tôi đã có thể nói, những câu tiếng Nhật giao tiếp bạn dùng hàng ngày, lại là những câu bạn sử dụng cực kỳ thành thạo, nhưng không cần nhân thức đến ý nghĩa đích thực của nó? Đừng lo, đây là một hiện tượng vô cùng bình thường trong tiếng Nhật mà có thể bạn cũng đã lưu ý: hiện tượng “tối nghĩa nhưng sáng dạ”. Bạn không thể giải thích câu nói hay phương pháp nói đó, nhưng bạn nắm bắt ý của nó và tìm ra một bí quyết nói trong ngôn ngữ của bạn mà có ý tương đương. Còn giả dụ bạn đang nghĩ “Dịch nghĩa được mà. Câu này tức thị chào buổi sáng” thì, thứ nhất, sau khi đọc ngừng bài viết của tôi bạn sẽ thấy nghĩa đen của nó hoàn toàn khác, và thứ nhì, nếu như nói cho cùng, thì “chào buổi sáng” không thực sự có nghĩa. Tại sao ư, bạn nhân thức đấy, trong tiếng Việt do phụ thân ông ta sáng tạo và để lại từ xưa không có từ “chào buổi sáng” mà chỉ có “chào ông” khi bạn chạm mặt ông, “chào chưng” khi bạn chạm mặt bác, “chào em” khi bạn chạm chán em. Vậy “chào buổi sáng” là câu bạn chào khi bạn gặp “buổi sáng”? Lý giải cho sự hiện ra của cách nói này, trong đầu tôi chỉ có tơ mơ một ký ức về những anh chị sinh viên tới lớp học thêm tiếng Anh – lớp làng – của bố tôi, nhìn bảng đen và cặm cụi chép vào vở đi học những dòng chữ:
“Good morning Gút mo ninh Chào (buổi sáng)
Good evening Gút ivờ ninh Chào (buổi tối)”
Và trong thâm tâm tôi vẫn lấy những mảnh ký ức đó để cắt nghĩa cho phương pháp nói tréo ngoe này.
Xin lỗi vì đã lạc đề. Quay trở lại với tiếng Nhật giao thiệp, đầu tiên xin được tiết lộ một gợi ý quan trọng cho người dùng: những câu trên vốn bắt nguồn trong khoảng tiếng Nhật cổ lỗ. Những cách nói ở trên đã được tìm thấy trong một số văn bản chữ viết từ thời Edo (khoảng thế kỷ 17-19), và trong thời điểm này người Nhật vẫn nói một thứ tiếng Nhật hoàn toàn khác những gì chúng ta đang học hiện nay. Khác ở điểm nào? Như tôi đã nói, khác hoàn toàn, trong khoảng việc có phổ biến chữ hiragana cùng biểu lộ 1 âm, bảng hiragana nếu như viết vừa đủ sẽ có 300 chữ, hay một chữ hiragana có thể biểu lộ 1 cụm từ vài âm liền nhau… Nhưng tôi sẽ lược ra một vài điểm chính liên quan tới những câu căn bản ở trên:
– Hệ thống âm đọc khá giống với chuỗi hệ thống âm đọc hiện tại, nhưng cách thức viết có đa dạng điểm khác biệt
– Các chữ bé không sinh tồn. Các chữ bé xíu bao gồm ya-yu-yo nhỏ xíu trong きゃ、きょ、きゅ, hoặc tsu nhỏ dại trong きっと.
– Các âm は、ひ、ふ、へ、ほ ví như chẳng phải là chữ bắt đầu của một trong khoảng, thì sẽ luôn được đọc là わ、い、う、え、お (VD: おほきく = 大きく, …) (ngừng thi côngĐây cũng là nguyên do trong tiếng Nhật hiện đại có các động trong khoảng đuôi う, く, す, つ, ぬ, む, る nhưng không bao giờ có ふ. Trong tiếng Nhật trước đây có rất nhiều động từ đuôi ふ, nhưng do bị đọc làう nên nay chúng đã biến thành động từ đuôi う)
– Các âm có vần -e (け、せ、て、ね 等) khi đi trước う sẽ bị đọc thành vần -yo (VD: けう hoặc ふ đọc như きょう, てう hoặc てふ đọc như ちょう, …)
– Các âm có vần -a (か、さ、た、な 等) khi đi trước う sẽ được đọc thành vần -o (VD: かう đọc như こう, たう đọc như とう, やう đọc như よう, …)
– Các âm có vần -i (き、し、ち、に 等) khi đi trước う sẽ được đọc thành vần -yu (VD: きう đọc như きゅう, しう đọc như しゅう, ちう đọc như ちゅう, …)
– Hiện tượng biến âm xảy ra thong thả và dần xuất hiện tiếng Nhật văn minh. Các hiện tượng biến âm gồm có:
+ Biến âm i (イ音便): các tính trong khoảng gốc Nhật, khi bổ nghĩa cho danh từ hay đại từ thì có đuôi き, nhưng do hiện tượng này đã dần được thay thế thành đuôi い
+ Biến ảm đạm (ウ音便): các tính từ gốc Nhật, khi bổ nghĩa cho động trong khoảng hoặc khi nối câu (連用形) thì có đuôi く, nhưng do hiện tượng này nên đã dần được thay thế thành đuôi う
+ Biến âm n và biến âm kép (撥音便、促音便) (không phù hợp nên tôi xin phép không biểu đạt rõ)

Tiếng Nhật trong đoạn truyện này được viết theo “lối” cổ – nghĩa là giống như cách thức hành văn trong tiếng Nhật cổ hủ, nhưng được viết bằng Hiragana hiện đại chứ không hề bằng hệ thống chữ viết Nhật thời bấy giờ – để bạn đọc có thể đọc được. Nhưng để hiểu được thì
Nếu như bạn hỏi tôi tại sao lại thế, thì tôi cũng xin thành thực giải đáp rằng nhân tố này năm ngoài kĩ năng lý giải của tôi. Chỉ có điều các nhà tiếng nói học và chắc hẳn là cả các nhà sử học đã xác nhận rằng thời xưa ở Nhật tiếng Nhật đã là như thế này. Tiếng Nhật hiện nay thực chất là sự đơn giản hóa cách thức viết và chấp thuận các hiện tượng biến âm song song quy chuẩn hóa ngữ pháp tân tiến, được thực hiện trên thứ tiếng nói “cổ kính” mà tôi đã diễn đạt ở trên.
Và đây chính là bộ chìa khóa lý giải tại sao chúng ta, người mua và tôi, lại nói おはようございます、ありがとうございます. Nhưng trước khi nói đến phần tiếng Nhật cổ hủ, hãy lưu ý phần tiếng Nhật văn minh đã.
Hãy nghĩ tới 1 tính trong khoảng đuôi i của tiếng Nhật tân tiến. chả hạn trong khoảng 早い.
Bạn biết thể phủ định của nó chứ? Tuy nhiên, 早くない.
Giả dụ nói lịch sự hơn một tí? 早くないです. Nhưng hãy nhớ cả cách thức nói chắc nịch của nó, tức cách nói dùng trong văn bản long trọng. 早くありません.
Bây chừ bạn lại không muốn phủ định nó nữa, bạn nói 早くあります. Đây còn là một cách nói cứng hơn nữa, tất nhiên vẫn là trong tiếng Nhật tân tiến.
Ví như bí quyết nói cứng, trọng thể đó mà còn khiến cho nó lịch sự hơn thì thế nào? はやくございます. Lịch sự hơn nữa? おはやくございます. Hãy nhớ câu này.
Hiện giờ chúng ta hãy nhìn đến chùm chìa khóa. Hãy nhìn tham gia dùng “biến u ám”. はやく dần được chuyển đổi thành はやう do biến âm này. Và khi chuyển đổi tương tự, hãy nhìn dòng nói về “Các âm có vần -a” và cho tôi nhân thức bạn sẽ đọc câu sau như thế nào? おはやうございます
Chính nó. おはようございます。
Không tin ư? Nếu như máy tính bạn có thể gõ được tiếng Nhật, hãy gõ おはようございます và chuyển nó sang kanji.
Còn giả dụ máy tính bạn không gõ được tiếng Nhật, tôi xin được nói đáp án luôn. お早うございます.

Vậy có tức thị, về mặt thực chất, おはようございます chỉ là trong khoảng はやい được thêm thắt những yếu tố lịch sự và bị biến âm mà thành. Nhưng để dễ hiểu, bạn có thể hình dung, với phương pháp miêu tả lịch sự trong tiếng Nhật “cũ kĩ” này, nếu như suy ra tiếng Nhật hiện đại tương đương chúng ta có thể nắm bắt nó giống như nói 「お早いです(ね)」: “Bác bỏ dậy sớm nhỉ” hay “Vẫn còn sớm chưng nhỉ”.
Người Nhật cũng giải thích 「おはよう」 tương đương với 「おはやく」 và là câu lược bớt của 「おはやく(からご苦労様でございます)」 Và với câu tiếp theo, do vì ありあがたい nghĩa là “hàm ơn, cảm thấy hàm ân” chắc hẳn bạn cũng đã dễ dãi nhìn thấy ありがとうございます có tức là 「ありがたいです」 “Tôi rất lấy làm cho hàm ơn”. Nhưng đối với câu này, bạn vẫn còn có thể xẻ nhỏ nó ra hơn nữa.Tiếng Nhật giao tiếp – Những nhân tố bến xe không dạy bạn
Tham khảo thêm: Collagen hanamail nhật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét